Tề thái phó nghẹn lời, rút tay về, quay đầu không nhìn Thẩm Trạch Xuyên nữa. Ông bị giam cầm ở đây, điên điên khùng khùng trong hai mươi năm trời, hận tất cả mọi người bên ngoài, tối nay lại phải thuyết phục bản thân không được hận con của kẻ địch.
“Bây giờ…” Tề thái phó ai oán, “Bây giờ ta còn có thể giết ai!”
Tuyết rơi lặng lẽ, con quạ trong viện bay khỏi đầu cành. Màn rách trong điện lay động theo gió, Tề thái phó run rẩy bò dậy, lảo đảo giơ cao hai tay, bi thương tuyệt vọng.
“Đại cục thiên hạ đã định! Thắng làm vua thua làm giặc, từ ấy hiền danh của điện hạ sụp đổ rồi, ngươi với ta đều là loạn thần tặc tử tiếng xấu muôn đời! Ta giết ai đây? Ta giết ông trời hồ đồ mông muội không có mắt này! Hai mươi năm trước điện hạ ở đây máu phun ba thước, chúng ta đã làm sai điều gì? Khiến cho hoàng thượng phải đuổi tận giết tuyệt đến vậy!”
“Giờ cũng giết ta luôn đi!”
Đêm tuyết tiêu điều giá lạnh, chùa cổ rộng vắng không người đáp lại. Tề thái phó quỳ như vậy, giống bức tượng phật tàn tạ hoang phế kia, bị tuyết trắng như bông bao trùm, vắng lặng trong đêm khuya Khuất Đô đèn đuốc rực rỡ này.
Nửa canh giờ sau, Kỷ Cương đỡ Tề thái phó, ba người ngồi vây quanh hương án.
Tề thái phó cười lạnh, nói: “Thẩm Vệ vốn là con vợ lẽ trong gia tộc, tuổi thơ chịu nhiều bất công, sau lại trả hết cho chính con hắn. Buồn cười là hắn cũng yêu chuộng con vợ cả, lại còn thích bên nữ sắc, sinh ra một đám con như thế, đúng là tạo nghiệp!”
“Chúng ta đã nhiều lần gửi thư cho vương phủ, nhưng Thẩm Vệ đều không hồi âm. Thái phó, ông nhìn tám đại gia Khuất Đô này xem, dù có là con vợ lẽ, cũng chưa từng nghe chuyện vứt bỏ không thèm để ý như vậy.” Kỷ Cương cau mày, “Sau đó Xuyên nhi ngơ ngác đi theo chúng ta, lúc đó Kỷ Mộ mười lăm tuổi, nhìn thấy đệ đệ thì vui lắm. Từ đó một nhà bốn người chúng ta ở Đoan Châu lạc hộ, để được ghi vào hoàng sách* quân hộ cũng phải tốn chút thời gian.”
Tề thái phó im lặng nửa khắc mới nói: “Ngươi chịu tội rời đô, muốn nhập hộ đương nhiên khó khăn. Lúc đó điện hạ nghiêm khắc thực hiện hoàng sách ghi chép hộ tịch vì muốn ức chế giặc cỏ, canh phòng loạn dân.”
Kỷ Cương nói: “Ta hiểu mà. Thái phó, sau khi ta rời đi Khuất Đô đã xảy ra chuyện gì vậy? Sao thái tử điện hạ lại đến nỗng nỗi ấy?”
“Giết một tên Phan Như Quý, còn có thể có Phan Như Hỉ, Phan Như Ý!” Tề thái phó thẫn thờ nói, “Hậu cung tham gia vào chính sự, ngoại thích khuynh đảo. Kỷ Cương, ngươi không hiểu, đây đều là căn bệnh thâm căn cố đế của tám đại gia. Chỉ cần tám đại gia Khuất Đô chưa được trừ diệt, việc này sẽ còn vòng đi vòng lại! Hoàng hậu ở lâu tại đại nội, làm sao có thể thao túng chuyện trong triều? Toàn dựa vào ảnh hưởng của Hoa gia xây dựng đã lâu. Ngày đó cho dù hoàng hậu không họ Hoa, đổi lại là dòng họ khác trong tám đại gia, việc này cũng sẽ phát sinh.”
“Nhưng mà,” Thẩm Trạch Xuyên không nhịn được hỏi, “thái tử điện hạ không phải đứa con xuất thân dòng chính trong cung sao?”
“Không phải.” Tề thái phó cúi đầu, “Mẹ ruột của điện hạ là phi tần trong cung. Hoàng hậu không có con cái, chưa từng sinh hạ. Thế nhưng điện hạ được hoàng hậu ôm vào trong cung, tự mình nuôi nấng. Thường nói hổ dữ không ăn thịt con… Thật đúng là thiên gia thì không có phụ tử.”
Trong điện liền lặng đi.
Kỷ Cương thở ra khí lạnh, chua chát nói: “Tại ta say rượu làm hỏng việc, khiến phụ thân mất lòng vua. Nếu không như vậy, chắc chắn điện hạ không tới nước này.”
“Ta vốn cho rằng, có Kỷ Vô Phàm cùng ngươi ở đây chắn trước, Kỷ Lôi sẽ không phản chiến.” Tề thái phó níu rèm rách, hồi tưởng khổ sở khó mà nói ra, “Ai biết hắn…”
Tề thái phó lầm rầm: “Đây cũng là mệnh số, liêu thuộc (quan cấp dưới) đông cung đồng tâm hiệp lực, nhưng vẫn không thể nào bảo vệ điện hạ. Hoàng thượng nghi ngờ điện hạ mưu phản, nhưng quyền lực của tám đại doanh Khuất Đô đều do tám đại gia đảm nhiệm. Cẩm y vệ tra được công văn mưu phản, xác định tất cả do điện hạ gây nên. Người của chúng ta vào chiếu ngục đã chết rất nhiều, không nhịn được hình phạt nên nói ra miệng. Hoàng thượng đang bệnh giận lôi đình, nghe thêm lời gièm pha của Phan Như Quý, điện hạ cũng hết đường thối lui.”
Ông giàn giụa nước mắt, rồi như điên dại lên.
“Điện hạ ở nơi đây, hết đường lui rồi! Sao không giết ta đi? Sao để một mình ta treo hơi tàn đến nay! Sống sót thế này đau đến không thiết sống, ta lại mãi vẫn chưa lao tới hoàng tuyền.”
Ông đột nhiên dán mắt vào Thẩm Trạch Xuyên, ngữ điệu càng cuồng điên.
“Thái phó…” Kỷ Cương nhấc mình muốn cản.
Kỷ Cương nắm chặt tay không nói.
Tề thái phó kéo Thẩm Trạch Xuyên, lại quỳ hai đầu gối, ông nhìn Thẩm Trạch Xuyên, run giọng nghẹn ngào: “Ta chính là Tề Huệ Liên của Du Châu! Ngươi không nhận ra ta, ta nói cho ngươi hay, ta là, là Tam nguyên đầu bảng của Vĩnh Nghi năm thứ mười lăm. Đại Chu khai quốc đến nay, người đỗ đầu Tam nguyên chỉ có năm người. Ta là liêu thuộc đông cung, nhậm chức Thượng thư Lại bộ, kiêm Thứ phụ nội các. Ta đã từng dạy thái tử, bây giờ, bây giờ ta dạy cho ngươi! Ta mang học vấn cả đời này, dạy tất cả cho ngươi… được hay không?”
Tam nguyên: thi Hương, thi Hội, thi Đình liên tiếp giành được các chức Giải nguyên, Hội nguyên, Trạng nguyên
Thẩm Trạch Xuyên nhìn chăm chăm đôi mắt Tề thái phó, y quá mức trấn định, sau thoáng trầm mặc ngắn ngủi đó, “bịch” quỳ trên đất, khấu đầu ba lần với Tề thái phó.
“Tiên sinh dạy ta thi thư, ta thay tiên sinh giết thù xưa.”
* * *
Giờ mão Cát Thanh Thanh ra cửa, đi tới chùa Chiêu Tội. Trên đường lạnh giá, tuyết vẫn còn rơi. Hắn hà hơi vào tay, vừa đi vừa tìm tiệm bánh bao.
Xa xa nghe thấy vài tiếng hô hoán, một chiếc dù lụa hồng che trong tuyết, người dưới dù hơi loạng choạng đi tới đây. Người có thể mang dù lụa hồng ở Khuất Đô đều là quyền quý ngũ phẩm trở lên.
Cát Thanh Thanh đứng chếch ven đường, dìu đao hành lễ. Người này lướt qua trước mặt hắn, mùi rượu nồng nặc xộc vào mũi.
“Đề kỵ*.” Người này dừng lại, giơ tay kéo yêu bài Cát Thanh Thanh, nhìn giây lát, nói, “Giờ này Cát bách hộ còn đi đâu? Trời thì lạnh rét cóng.”
Tác giả có lời muốn nói: *Tức Cẩm y vệ.
Tiêu Trì Dã uống rượu suốt đêm, quần áo xốc xếch. Hắn kéo yêu bài, nói: “Đường này không giống như là hướng vào cung.”
Cát Thanh Thanh ngẩng đầu, tỏ vẻ ngại ngùng cười, nói: “Nhị công tử quý giá, không biết hẻm dân này lộn xộn. Từ đây len qua mấy con hẻm dân là có thể rẽ ngoặt đến phố lớn Thần Võ, nối thẳng cửa cung.”
Tiêu Trì Dã nghe vậy liền cười, vứt yêu bài trả lại hắn, nói: “Nhận ra ta à?”
Cát Thanh Thanh nhận yêu bài, lấy lòng nói: “Thiết kỵ Ly Bắc dũng mãnh thiện chiến, thế tử và nhị công tử cứu giá có công, ở Khuất Đô có ai không nhận ra ngài. Nhị công tử muốn về phủ sao? Trên đường trơn trượt, ty chức cả gan, đưa ngài trở về được không?”
Tiêu Trì Dã nhìn hắn, nói: “Nhìn ta giống con ma men sao? Ngươi đi đi thôi.”
Cát Thanh Thanh lại hành lễ một lần, rồi rời đi.
Lúc Triêu Huy đến thấy Tiêu Trì Dã gõ cái dù lụa hồng, đang nói cửa tiệm bánh bao làm nhanh lên chút. Hắn đi đến gần, nói: “Trong phủ có dự sẵn đồ ăn sáng rồi, sao công tử phải đứng đây ăn?”
Tiêu Trì Dã nói: “Ta đói, không đi về được.”
Triêu Huy tung áo khoác ra, nói: “Tửu sắc hại người, công tử, chúng ta về thôi.”
Tiêu Trì Dã trùm áo khoác lên, vẫn không xê dịch chân. Hắn ăn hai cái bánh bao, vô tư không thèm để ý ánh mắt xung quanh, hỏi Triêu Huy: “Ở đây có thể đến phố lớn Thần Võ không?”
“Đến thì có thể, nhưng mà không dễ đi.” Triêu Huy nói, “Hẻm dân thêm kênh rạch công, càng là hẻm chật hẹp thì càng tắc nước kênh ô uế. Mấy năm gần đây Khuất Đô không tu sửa kênh rạch công, chỗ này lởm kinh lắm rồi. Đợi trời ấm lên, tuyết tan, mưa xuống, nước bẩn cũng ngập ra mạn phố. Ngài xem, con đường như vậy dễ đi không?”